Mô hình chấp nhận công nghệ tam dần được công nhận là một trong những mô hình đáng tin cậy và mạnh trong việc mô hình hóa việc chấp nhận IT của người sử dụng. Hãy cùng bài viết dưới đây tìm hiểu do đâu mà loại công cụ này ngày một phổ biến và nhận được sự tin tưởng từ người sử dụng nhé!
Nội dung bài viết
1.Giới thiệu về mô hình chấp nhận công nghệ tam
Mô hình chấp nhận công nghệ tam là một hệ thống thông tin lý thuyết dưới dạng mô hình hóa hướng dẫn người dùng sử dụng công nghệ và chấp nhận sử dụng nó.
Việc sử dụng hệ thống thực tế là giai đoạn cuối cùng mà người dùng sử dụng công nghệ. Một trong những yếu tố khiến con người sử dụng công nghệ chính là hành vi thói quen. Thói quen này được tác động bởi thái độ và sự lặp đi lặp lại mỗi ngày.
Mô hình chấp nhận công nghệ Tam được Davis (1986) phát minh ra dựa trên lý thuyết về hành động hợp lý (Viết tắt là TRA) . Mô hình này được phát triển dựa trên mô hình chấp nhận công nghệ, có liên quan trực tiếp đến vấn đề dự đoán khả năng chấp nhận của một hệ thống thông tin hoặc một mạng lưới máy tính nào đó.
Mô hình chấp nhận công nghệ tam ra đời với mục đích dự đoán khả năng chấp nhận của một loại công cụ và các định các sửa đổi phải được đưa vào hệ thống. Như vậy, mới có thể làm cho nó được người dùng chấp nhận và tin tưởng sử dụng.
Mô hình này cũng cho thấy khả năng chấp nhận của một hệ thống thông tin được xác định bởi hai yếu tố cơ bản là nhận thức tính hữu ích và nhận thức hình thức dễ sử dụng.

2.Các yếu tố trong mô hình chấp nhận công nghệ tam
Việc người dùng tin rằng, việc sử dụng một hệ thống công nghệ sẽ giúp cải thiện năng suất làm việc của bản thân. Nhận thức dễ sử dụng đề cập đến mức độ mà một người có niềm tin vào việc sử dụng hệ thống sẽ dễ dàng hơn bao giờ hết. Có một số phân tích giai thừa đã chỉ ra rằng, tính hữu dụng và nhận thức dễ dàng sử dụng được coi là hai chiều hướng hoàn toàn khác nhau.
Như nội dung đã được trình bày trong lý thuyết Hành động có lý do, mô hình chấp nhận công nghệ tam quy định rằng, việc sử dụng hệ thống thông tin được xác định bởi ý định hành vi con người. Song, có nhiều ý kiến chỉ ra, ý định hành vi lại được xác định bởi thái độ của người sử dụng đối với một hệ thống, hoặc là nhận thức của bản thân về tính hữu ích của nó.
Theo Davis- tác giả của mô hình chấp nhận công nghệ Tam, thái độ của một cá nhân không phải là yếu tố duy nhất quyết định người dùng sử dụng một hệ thống, mà nó còn phụ thuộc vào tác động của hệ thống đối với hiệu suất làm việc của người đó. Chính vì vậy, ngay cả khi một nhân viên không đồng tình một hệ thống thông tin, thì xác suất cao người đó sẽ sử dụng nó bởi họ nhận ra rằng, hệ thống sẽ cải thiện được năng suất làm việc, từ đó tạo hiệu quả trong công việc. Ngoài ra, mô hình chấp nhận công nghệ còn đưa ra giả thuyết về mối liên hệ giữa tính hữu dụng nhận thức của con người và tính dễ sử dụng của hệ thống.
3.Ứng dụng của mô hình chấp nhận công nghệ Tam
- Tam được phát minh để giải thích tính hữu ích giữa nhận thức và ý định sử dụng về ảnh hưởng xã hội ( Đó là chuẩn mực chủ quan, tính tự nguyện của người sử dụng, các hình ảnh liên quan) và các quy trình công cụ nhận thức ( Mức độ thích hợp với công việc, năng suất làm việc, khả năng thể hiện kết quả, tính dễ dàng sử dụng của hệ thống).
- Tam đã giải thích được nhiều loại hệ thống sử dụng như E-learning, hệ thống quản lý học học tập,..Tuy nhiên, Tam có một nhược điểm đó chính là không phù hợp để giải thích việc áp dụng các hệ thống thuần túy nội tại hoặc các hệ thống khoái lạc như âm nhạc, trò chơi trực tuyến hay học tập để giải trí.
- Tam mở rộng dùng để nghiên cứu một số đề xuất mà Tam ban đầu do Davis phát minh không thể giải thích được.Tam mở rộng có thể khám phá tác động của các yếu tố bên ngoài về thái độ, ý định cũng như hành vi người dùng với các hệ thống công nghệ. Mô hình này chủ yếu được áp dụng trong các công nghệ chăm sóc sức khỏe con người.
-
Mô hình chấp nhận công nghệ tam được áp dụng rất nhiều vào cuộc sống.
4.Nhận xét về mô hình chấp nhận công nghệ tam
Dù đã được sử dụng thường xuyên, nhưng Tam vẫn nhận phải nhiều lời chỉ trích. Những lời nhận xét về Tam như một phần lý thuyết bao gồm giá trị kinh nghiệm của nó cũng như khả năng giải thích và dự đoán vấn đề còn tầm thường, thiếu tính thực tế.
Nói tóm lại, Tam chỉ tập trung vào người dùng máy tính cá nhân, chỉ dừng lại ở khái niệm tính hữu ích mà người sử dụng cảm nhận được, mà không quan tâm đến các yếu tố cơ bản về các quy trình phát triển và thực hiện IS.
Nhiều người còn cho rằng, Tam chỉ chiếm 40% việc sử dụng hệ thống công nghệ mà thôi, nên chưa thể khái quát tất cả các vấn đề như phân tích của tác giả.
Trên đây là tổng hợp các vấn đề về mô hình chấp nhận công nghệ Tam mà chúng tôi thu thập được. Hy vọng bài viết mang lại cho bạn đọc nhiều kiến thức hữu ích về loại mô hình công nghệ này.